Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng. Ảnh: H.T
Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể tại Điều 612, quy định: Di sản bao gồm tài sản cá nhân của người đã mất và phần tài sản của họ trong tài sản chung với người khác. Đồng thời, Điều 626 và 645 tại bộ luật công nhận quyền của người lập di chúc trong việc dành một phần di sản cho mục đích thờ cúng và quy định các chi tiết liên quan đến việc sử dụng di sản cho mục đích này.
Theo Luật sư Lê Hiếu, Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng, dù Bộ luật Dân sự năm 2015 không định nghĩa cụ thể về “Di sản dùng vào việc thờ cúng”, nhưng dựa trên việc phân tích bộ luật và các văn bản pháp luật liên quan có thể hiểu rằng đó là phần tài sản của người chết, được xác định theo Bộ luật Dân sự và được sử dụng để thờ cúng theo di chúc hoặc thỏa thuận, đảm bảo tuân thủ pháp luật và không vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội.
Có thể khẳng định rằng, tài sản dành cho việc thờ cúng chỉ xuất hiện trong trường hợp thừa kế theo di chúc như được quy định tại khoản 3 Điều 626 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn nữa, phần di sản đã được người lập di chúc chỉ định cho mục đích thờ cúng sẽ không được phân chia thừa kế, theo quy định tại khoản 1 Điều 645 của cùng bộ luật. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 645, nếu toàn bộ di sản của người đã khuất không đủ để thanh toán các nghĩa vụ tài sản thì không được phép trích một phần di sản cho việc thờ cúng.
Liên quan đến việc quản lý di sản dành cho việc thờ cúng, Luật gia Vi Công Sang từ Hội Luật gia thành phố Hà Nội cho rằng, theo Bộ luật Dân sự năm 2015 nếu di chúc có quy định phần di sản cho việc thờ cúng, phần này sẽ được giao cho người được chỉ định trong di chúc để quản lý và thực hiện việc thờ cúng. Trong trường hợp người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không tuân thủ thỏa thuận của những người thừa kế, họ có quyền chuyển giao phần di sản này cho người khác quản lý.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng tài sản dùng cho việc thờ cúng chỉ xuất hiện trong thừa kế theo di chúc (khoản 3, Điều 626) và phần di sản đã được định đoạt cho việc thờ cúng sẽ không được chia thừa kế (khoản 1, Điều 645). Tuy nhiên, nếu di sản không đủ để thanh toán các nghĩa vụ tài sản thì không được phép trích một phần di sản cho việc thờ cúng (khoản 2, Điều 645).
Nếu người lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế sẽ chọn ra một người để quản lý. Nếu tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã mất thì phần di sản dùng để thờ cúng sẽ thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó, trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Luật sư Nguyễn Thị Trang từ Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội chia sẻ rằng, trên thực tế có những trường hợp người lập di chúc chỉ sở hữu một căn nhà và mong muốn toàn bộ căn nhà này sẽ được dùng làm di sản thờ cúng sau khi họ qua đời không muốn ai khác sử dụng. Đây là một nguyện vọng chính đáng cần được tôn trọng.
Tuy nhiên, do Điều 626 và 645 của Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định người lập di chúc được để lại “một phần di sản” cho việc thờ cúng, nên có thể phát sinh vướng mắc khi có quan điểm cho rằng họ chỉ được định đoạt một phần di sản. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc hiểu và áp dụng luật, gây trở ngại cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi đưa ra phán quyết.